Phang em nữ sinh thủng cả bao sao su
Ông ta cố gắng to giọng, cảnh mất trật tự lại càng gia tăng. Nếu người ta đọc nó, họ sẽ không tìm ra được những lý giải có thể chấp nhận tương xứng với vai trò cực kỳ to lớn của một nhà chuyên chế đầy quyền lực: Nếu những sự kiện to lớn đó ít xảy ra, nó cũng có nguyên nhân của nó, đó là, trong một chủng tộc không có gì bền vững hơn là di sản tâm tư mà nó được kế thừa.
Ở đây cái cơ chế, từng được nhắc tới trước đây trong bài viết này, đã thể hiện một cách rất rõ ràng: đó là sự tuân phục một ảnh hưởng, mà tác động của nó càng mạnh mẽ khi nó được sinh ra từ đám đông, nó tạo nên niềm tin cho kẻ giết người về tính cao cả của hành động đó, và kẻ giết người càng trở nên tự nhiên hơn khi được những người đồng chí của nó cổ vũ một cách nhiệt tình. Như vậy thành viên của một đám đông có những đặc điểm chính sau: Mất đi cá tính có ý thức, cá tính vô thức chiếm thế thượng phong, suy nghĩ và tính cảm bị hướng về một hướng bởi kích hoạt và lây nhiễm, có xu hướng nhất quyết biến những ý tưởng bị kích hoạt thành hành động. “Không có trật tự nào”, Lavisse viết rất chính xác, “được lập nên trong một ngày.
Những người sống ở thời đại cách mạng đã tin vào việc bắt chước những người Hy lạp và La mã, nên chỉ gắn cho những ngôn từ cũ những ý nghĩa mà chúng chưa bao giờ có. Thế nhưng trong lúc chuyển các thi hài đi làm lễ chôn cất thì tình cờ người ta phát hiện ra người có căn cước như hai nạn nhân trên vẫn đang sống và có hình thức bên ngoài chẳng khác gì hai nạn nhân nhỏ bé kia (ở đây dịch hoàn toàn sai, phải là, “chẳng có chỗ nào giống” mới đúng). Một diễn giả không tên tuổi mà diễn văn của ông ta có những lập luận tốt và cũng chỉ toàn là lập luận sẽ không có chút hy vọng gì cho dù chỉ được người ta chú ý nghe.
Quyền lực vô biên của một kẻ thống trị tùy tiện nhất cũng chỉ đủ để thúc đẩy hoặc ngăn cản chút ít cái thời điểm xảy ra. Ngay từ buổi bình minh của văn hóa, các dân tộc luôn luôn phải chịu ảnh hưởng của các ảo tưởng . Ta sẽ hiểu ảnh hưởng của sự lặp lại vào đám đông một cách thực sự, nếu ta thấy nó đã tác động như thế nào đối với ngay cả những cái đầu thông thái nhất.
Chúng ta lại có thể khẳng định rằng, cái “nhận ra” này thường xảy ra ở phần lớn đàn bà và con trẻ, là những thành phần dễ xúc động nhất. Nó không còn có ý thức về những hành động của nó. Tôi không nghĩ có một diễn giả nào lại có thể nói trọn hai câu mà không bị ngắt lời giữa chừng.
Đối với tôn giáo cũng trong cùng khoảng thời gian đó, từ thiên chúa giáo sang vô thần, sau sang chủ nghĩa thần thánh và cuối cùng lại quay trở về với thiên chúa giáo với một hình thức khắt khe nhất. Quyền lợi cá nhân trong đám đông hiếm có khi là một động lực mạnh mẽ, trong khi đó đối với một người độc lập, nó là sự kích thích gần như là duy nhất. Gustave Le Bon (1841 - 1931) là nhà tâm lý học xã hội nổi tiếng người Pháp với lý thuyết về đám đông.
Nguyên nhân đầu tiên của các nguyên nhân này nằm ở chỗ các thành viên của đám đông chỉ nguyên với cái cảm giác là số đông đã có một sức mạnh vô địch, cho phép nó hiến mình cho bản năng, điều khi chưa là thành viên của đám đông nó nhất thiết phải kiềm chế. Uy lực càng lớn, thì sự đổi chiều càng mãnh liệt. Như chúng ta đã thấy, đám đông không hề suy nghĩ, họ tiếp nhận hoặc vứt bỏ các ý tưởng một cách nhanh chóng, không dung thứ tranh luận và mâu thuẫn.
Những anh hùng thần thánh và những thánh thần thiên chúa giáo không bao giờ thực hiện sự thống trị toàn diện lên các tâm hồn. Khi mối hiểm nguy đã qua đi, sự sợ hãi cũng biến mất cùng với niềm biết ơn. Qua những phần vô thức, cái tạo nên nền tảng của tâm hồn chủng tộc, tất cả những thành viên của chủng tộc trở nên giống nhau, ngược lại qua những tố chất có ý thức - những thành quả của giáo dục, nhưng trội hơn cả vẫn là đặc tính di truyền - đã tạo nên sự khác nhau giữa họ.
Trong văn học, nghệ thuật, trong triết học sự thay đổi còn xảy ra nhanh chóng hơn nhiều. Có kẻ đã bắt cóc nó và đem đi giết”. Từ đó dẫn đến, những ý tuởng nào đó chỉ có thể trở thành hiện thực trong một khoảng thời gian nhất định, và sau đó không thể được nữa (dịch sai, đúng ra phải là “có những ý tưởng nhất định chỉ thực hiện được trong thời đại nào đó chứ không thể trong thời đại nào khác).
Tôi nhắc lại: hiệu quả tác động của những nhà lãnh đạo chủ yếu là do uy lực của họ, chứ rất ít khi do những lập luận. Từ những lý do trên, tòa bồi thẩm ra các tuyên án mà mỗi một bồi thẩm viên, khi là một người độc lập, tuyên bố phản đối chúng, quốc hội chấp nhận thông qua các điều luật và các đề nghị là những điều mà mỗi một nghị viên, như là một người độc lập, phủ nhận chúng. Nhưng những sự phê phán như vậy, về mặt lý thuyết không có gì để chê trách, tuy nhiên trong thực tiễn chúng bị mất hết sức lực, nếu như người ta nhớ đến cái sức mạnh không gì ngăn cản nổi của những ý tưởng một khi đã trở thành những tín điều.